Vua của Thụy Điển và Na Uy Karl_XIV_Johan_của_Thụy_Điển

Sau khi cùng các nước lớn đánh bại Napoleon I (1814 - 1815), đất nước Thuỵ Điển trở về yên bình. Thái tử Karl Johan tiếp tục chính sách đối ngoại duy trì sự cân bằng giữa các cường quốc và không tham gia vào cuộc tranh chấp diễn ra bên ngoài bán đảo Scandinavia, và ông tiếp tục củng cố thành công vương quốc của mình trong trạng thái yên bình từ năm 1814 cho đến khi băng hà[40].

Năm 1818, ông làm lễ đăng quang ngôi Quốc vương ở Thuỵ Điển ngày 5 tháng Hai tại thủ đô Stockholm, hiệu Karl XIV, và lên ngôi vua Na Uy ngày 7 tháng Chín tại nhà thờ Trondheim (Oslo) hiệu Karl III. Dù là vua hai nước, nhưng vì triều đình tọa lạc tại Thuỵ Điển nên nhà vua đã cử các thống đốc sang cai trị Na Uy. Tại Na Uy, ông đã tìm cách khống chế Quốc hội của nước này qua việc áp dụng "quyền phủ quyết" (veto) khi bầu cử trong khi vẫn giữ tính độc lập của Vương quốc Na Uy, nhưng không thành công[41]; đồng thời cho phép tàu Na Uy được dùng cờ Thụy Điển trong giao dịch buôn bán với bên ngoài[42].

Trong thời gian trị vì 26 năm của mình, Karl XIV tiến hành một cuộc cải cách mạnh mẽ để làm bước mở đầu hình thành một Vương quốc Thụy Điển hòa bình, phát triển vững mạnh cho tới ngày nay.

Đối nội

Về đối nội, Quốc vương Karl XIV giải quyết khá thành công vấn đề khủng hoảng nợ công Thụy Điển. Sau chiến tranh, tình trạng lạm phát kéo dài và nhiều đồng tiền "chạy ra ngoài", gây thất thoát tài chính quốc gia. Quốc vương thuyết phục thành công Nghị viện Thụy Điển thành lập "Riksgäldens sedelpressar" (Văn phòng nợ quốc gia), trong đó trích gần 70% ngân sách để trả dần vào các ngân hàng nước ngoài (khoảng 900 triệu krona), nhiều nhất là từ Pháp. Để dễ dàng cho việc chi trả chiến phí chiến tranh, Quốc vương lập ra Quỹ Goudaloup[43][44][45](tiếng Thụy Điển: Guadeloupefonden) gồm chủ yếu là tài sản của gia đình hoàng gia, để sử dụng. Sau khi trả xong nợ, cuộc họp của Nghị viện năm 1815 đã quyết định chính sách tài khóa của Thụy Điển. Trong hội nghị, khi các bộ trưởng của nhà vua tỏ ra chủ quan trước thắng lợi của cuộc chiến mà không có một sự hiểu biết đầy đủ về mức độ nghiêm trọng của cuộc khủng hoảng, dẫn đến thất bại để rồi bắt đầu các biện pháp để phục hồi nó. Việc này được một chuyên gia là Fredrik von Schwerin giải quyết ổn thỏa trên cơ sở áp dụng mô hình tài khóa của nước Anh[46]. Ngân sách nhà nước được cân đối từ năm này qua năm khác trong suốt triều đại của Karl XIV. Sau khi chuẩn bạc được giới thiệu vào năm 1834, đã mở ra một thời kỳ dài của chính sách tiền tệ thành công của sự ổn định trong công việc nhà nước[47].

Chính sách tự do báo chí cũng là điểm tích cực của cải cách Karl Johan. Tuy nhiên, ông lại bảo thủ trong việc này khi mọi quyền quyết định đều thuộc về nhà vua mà không thông qua ý kiến của Quốc hội. Các bộ trưởng được tuyển chọn trong số thân cận của ông, bất chấp ý kiến của nghị viện[48]. Việc này vấp phải sức kháng cự của lực lượng cấp tiến mà đại diện là là phái tự do (liberals) trong Nghị viện. Trong cuộc họp Nghị viện năm 1823, chính phủ muốn tìm kiếm một sự thay đổi mô trong kinh doanh, cho phép người dân tự do kinh doanh trên lĩnh vực công nghiệp và thương mại. Tuy nhiên, nắm các chức vụ chủ chốt vẫn là người của nhà vua. Greve Carl Henrik Anckarswärds đề cao vai trò quan trọng của phe đối lập và có ý muốn trao cho họ quyền tự do khi thảo luận với chính phủ tại Nghị viện. Cuộc họp từ 1828 - 1830 của Nghị viện cho phép thực hiện chuyển đổi ngoại tệ trong tài chính để giải quyết cuộc khủng hoảng, và nhà vua đã đồng ý[49].

Năm 1830, do ảnh hưởng của trào lưu cấp tiến sau cách mạng tháng Bảy của Pháp mà luồng quan điểm của "chủ nghĩa tự do" nảy nở dữ dội trong chính trị Thụy Điển. Tháng 12/1830, tờ báo cấp tiến Aftonbladet (Evening Press, Báo Buổi chiều) với Lars Johan Hierta làm chủ bút (tổng biên tập). Ngay trong ngày đầu tiên ra đời, báo cho lưu thông tới 3.000 bản. Vào những ngày cuối cùng của năm 1830, số lượng xuất bản của tờ báo này ngày càng tăng lên 7.500 bản/ngày, bán nhiều ở các quầy báo. Nhưng tin tức quan trọng thường đưa lên hàng đầu, mỗi tin theo kiểu quan trọng như vậy có tới 100.000 người Thụy Điển tìm đọc[50]. Karl Johan mặc cảm vì nguồn gốc nước ngoài của mình và ông không thể nói được ngôn ngữ địa phương nên không chủ động khi hiệu chỉnh Hiến pháp. Ông gặp nhiều khó khăn do bất đồng ngôn ngữ khi nói chuyện với các đại diện, các cố vấn chính phủ cũng như ký văn bản công nhận một tổ chức chính phủ.....

Cuộc đấu tranh của phái bảo thủ chống lại phái tự do đang lớn mạnh đạt đến cực điểm vào cuối thập niên 1830, được đánh dấu bởi những hành động chống lại tự do báo chí và những bản án kết tội phản bội. Cụ thể, phái bảo thủ của nhà vua đã điên cuồng chống lại, cấm hành nghề báo chí đối với August von Hartmansdorff và kết án Crusenstopes vào mùa hè năm 1838 vì tội phản bội quốc gia đã làm gia tăng mâu thuẫn sâu sắc trong nội bộ chính phủ giữa phe bảo thủ của nhà vua với "chủ nghĩa cộng hòa" - hay tự do, rất được nhiều người dân Thụy Điển ủng hộ. Những hành động đàn áp này đã vấp phải sự chỉ trích mạnh mẽ của phái tự do cũng như những cuộc xuống đường biểu tình của quần chúng. Trước khí thế đấu tranh của quần chúng, đấu tranh giữa hai phe trong nội bộ triều đình giảm bớt tuy nhiên phe đối lập tìm đủ mọi cách tấn công vào phe bảo thủ của nhà vua. Cuộc đấu tranh lên cao trào khi năm 1839, những người đối lập và bất mãn với chính phủ đòi triệu tập Nghị viện vào năm sau (1840) để thuyết phục nhà vua thoái vị. Các bộ trưởng trở nên bất lực và không còn ít quyền hành nào. Vì thế, tại cuộc bầu cử tại Ủy ban cho Nghị viện đầu năm 1840, phe đối lập giành thắng lợi trước phe của nhà vua. Cuối cùng, Nghị viện của phe đối lập chiếm đa số, quyết định tiến hành cuộc “cải cách ở các bộ”, nghĩa là giờ đây các bộ trưởng trở thành người đứng đầu của bộ liên quan, chịu trách nhiệm trước Nghị viện chứ không chiụa trách nhiệm trước Quốc vương nữa[51].

Về kinh tế, chính phủ Karl XIV có bước phát triển khá tốt. Trong nông nghiệp, nhà vua lập Học viện Nông nghiệp (1811) với nhiệm vụ tìm kiếm các loại cây trồng, vật nuôi phù hợp với điều kiện khí hậu của Thụy Điển. Các Hội nông nghiệp[52] được xúc tiến thành lập nhiều nơi, bắt đầu từ năm 1811 với những nơi như Kronobergs, Östergötlands, Malmöhus, Västmanlands, Jönköpings, Göteborgs- och Bohus, Uppsala, Blekinge và Norrbottens. Hội nông nghiệp ở Norrbottens về sau bị giải tán năm 1824, nhưng được phục hồi trở lại từ năm 1850[53]. Các hội nông nghiệp này có nhiệm vụ hỗ trợ lương thực, nông cụ và các cách làm nông nghiệp mới hiệu quả. Tuy nhiên, hiệu quả của cách làm mới này lại không được bao nhiêu và nạn thiếu lương thực, đói kém ngày càng trầm trọng. Thụy Điển trở thành nước xuất khẩu lương thực và vẫn như vậy trong nhiều thập kỷ mặc dù dân số cả nước tăng khoảng một phần ba, đã có một triệu người chết đói dưới thời Karl Johan vào năm 1844. Trong thời gian này, diện tích gieo cấy bằng 40 phần trăm và năng suất cây trồng bằng 53 phần trăm[54][55].

Về công nghiệp, nhà vua khuyến khích cho thương nhân vay tiền của Nhà nước để làm kinh doanh. Tuy nhiên, việc thanh toán tiền giữa người dân và ngân hàng bị gặp trở ngại do lạm phát tăng cao và tiền giấy có lẽ không đủ để cấp phát cho người dân. Hơn nữa, khủng hoảng tài chính do hậu quả của chiến tranh Napoleon đè nặng lên vai người dân và Chính phủ. Luật ngân hàng mới được Chính phủ thông qua[56] năm 1820 cho phép thành lập các ngân hàng thương mại ở Thụy Điển để giải quyết vấn đề tài chính quốc gia. Ngân hàng đầu tiên được thành lập là Ngân hàng tiết kiệm Skånska Privatbanken ở Ystad, ra đời từ năm 1830[57]. Sau đó, một loạt các ngân hàng thương mại do tư nhân lập ra ở các thành phố lớn của Thụy Điển. Các ngân hàng được phép phát hành tiền giấy của riêng mình, giúp doanh nghiệp có lợi nhuận có cơ hội tăng cường nguồn vốn và có thêm cơ hội để cho vay tiền. Nhu cầu tín dụng trong nước là rất lớn và đặc biệt là trong thương mại và nông nghiệp, mà còn trong các ngành công nghiệp dệt may đang nổi lên ở Norrköping. Ngoài ra, ngành công nghiệp Thụy Điển cần thêm nguồn vốn để đầu tư phát triển; nhất là ngành công nghiệp sắt đã phải nhập nguyên liệu từ Lancashire của Anh vào để chế biến với chất lượng tốt, công nghệ lò cao cũng bắt đầu phát triển[58]. Việc sản xuất các sản phẩm từ công nghiệp sắt tăng gấp đôi từ 1840 - 1860, phần nào khôi phục lại nguồn thị trường tiêu thụ sắt của Thụy Điển bị mất từ cuối những năm 1700 và đầu thập niên 1800[59].

Cơ sở hạ tầng Thụy Điển trong tình trạng rất tồi tệ trước khi Karl XIV lên ngôi. Sau khi làm Quốc vương, Karl XIV quyết định cải thiện cơ sở hạ tầng của vương quốc. Các con đường được xây dựng lại và có lát sỏi để tránh những trở ngại do thời tiết gây ra. Hệ thống kênh đào cũng được nhà vừa đốc thúc xây dựng, với chi phí xây dựng là 39 triệu curon, được hoàn thành vào năm 1832[60]. Điều này giúp cho nền kinh tế Thụy Điển vực dậy và tăng trưởng mạnh cho đến những năm đầu của năm 1900. Ngoài ra, nhà vừa xúc tiến làm cống thoát nước và nạo vét, mở rộng các cảng biển cho tàu thuyền vào đậu. Đường dây điện báo được khai mở dưới thời ông và đã kết nối với các cơ quan, thành phố trên toàn quốc, giúp khắc phục việc trước đây người dân phải chuyển tin bằng mail và thư. Thời gian chuyển rất lâu, thư chuyển từ thủ đô đến thành phố Malmo phải mất 6 ngày mới đến nơi.

Giáo dục là lĩnh vực được Quốc vương quan tâm nhiều hơn cả. Các ngôi trường được mở rất nhanh chóng ở nhiều nơi: từ 183 trường (1823) tăng lên tới 1.400 trường vào năm 1840[61][62]. Nhà vua trong cuộc họp của Nghị viện đã ra đạo luật cưỡng bách giáo dục (1842) của Thụy Điển. Đạo luật quy định: mỗi người dân đều phải biết đọc, viết và đếm, và được coi là một điều kiện tiên quyết quan trọng để chuyển đổi nhanh chóng của Thụy Điển thành một nhà nước phúc lợi. Hoạt động nghiên cứu khoa học ở các trường đại học được nhà vừa khuyến khích. Quốc vương tiếp đón và trao đổi với nhà hóa học Jöns Jacob Berzelius, nhà phát minh ra cánh quạt John Ericsson. Văn hóa Thụy Điển phát triển rực rỡ với các tên tuổi lớn: Esaias Tegner, Johan Olof Wallin, Erik Gustaf Geijer, Carl Jonas Love Almqvist, Erik Johan Stagnelius, Adolf Fredrik Lindblad, Johan Fredrik Berwald, Franz Berwald và Frans Michael Franzen. Nghệ sĩ và các nhà văn hóa khác được khuyến khích phát triển học thuật với các học bổng của nhà vua.

Chăm sóc y tế được cải thiện dưới thời Karl XIV. Trước khi nhà vua lên ngôi, Thụy Điển đã chỉ được một vài bệnh viện thì đến năm 1833, con số đó đã tăng lên đến bốn mươi bênh viện với 1.800 giường bệnh[63][64]. Ở các bênh viện, nhà vua cũng thúc đẩy sự phát triển của y tế bằng cách trích ngân quỹ của mình vào nguồn kinh phí của y tế quốc gia[65]. Ngoài ra, tỷ lệ trẻ sơ sinh chết non cao cũng làm nhà vua phải xuất tiền để đào tạo các nữ hộ sinh. Kết quả là giảm tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh và tăng trưởng dân số nhanh chóng. Dân số gia tăng trong suốt triều đại của nhà vua, từ một triệu dân đến 3.317.000 dân vào thời kỳ nhà vua thoái vị (1844)[64][66].

Chính phủ Thụy Điển cũng xúc tiến tự do hóa thương mại nước này bằng cách: gỡ bỏ lệnh cấm nhập khẩu (1823), giảm dần các thủ tục phiền phức về thu chi ngân sách và thương mại nước ngoài đã được đơn giản hóa. Năm 1834, đạo luật của Nghị viện cho phép nông dân trên cả nước được phép bán hàng hóa ra nước ngoài mà không phải đưa hàng hóa về tiêu thụ tại các nông thôn nữa (1810). Quyền cho phép các doanh nghiệp lập ra các quy chế riêng cho mình cũng được thi hành từ thời nhà vua trị vì cho đến tận 1848[67]. Mặc dù vậy, các giao dịch thương mại vẫn thực hiện trong phạm vị nội bộ và sau khi nhà vua băng hà, người con trai lên cầm quyền đã ra 2 đạo luật năm 1846 và 1864 cho phép thương nhân Thụy Điển được tự do về thương mại.

Khoa học kỹ thuật được khuyến khích dưới thời Karl XIV. Thụy Điển lập thành công một cửa hàng máy tính đầu tiên ở Stockholm, tàu hơi nước của Samuel Owen và "ångtröskverk"[68] (tiếng Thụy Điển, nghĩa là máy đập lúa bằng hơi nước) và một số thành tựu nghiên cứu khoa học khác. Nhờ vậy mà nhiều ngành công nghiệp Thụy Điển rất phát triển - mạnh nhất là ngành dệt may, ngành khai mỏ và ngành công nghiệp gỗ, vốn phát triển mạnh ở vùng phía bắc đất nước. Với công nghiệp may vốn cần nhiều thiết bị kỹ thuật, nhà vua trả tiền học bổng cho những thanh niên có thể nghiên cứu các công nghệ mới ở nước ngoài để sau đó có thể mang nó về nhà giúp ích nước nhà Thụy Điển.

Trong nền chính trị, nhà vua tỏ ra bảo thủ. Ông cho tay chân vào tham gia nội các, trả lương cao cho những người này và điều đó làm nhiều người - nhất là phái tự do, bất mãn với vữa. Tuy vậy, ông cũng tạo được nền dân chủ mới cho Thụy Điển bằng cách khuyến khích lập các Hội và Câu lạc bộ. Các Hội này được nhà vua bảo trợ về tiền bạc, tài sản. Một số Hội, Câu lạc bộ dần dần phát triển thành các cơ quan như Cơ quan quốc gia và Hội đồng quốc gia. Lần đầu tiên, phụ nữ có quyền ngang với nam giới khi được chính phủ cho phép lập hội, được có cơ hội tích cực tham gia các cuộc thảo luận về thiết kế của xã hội trong tương lai.

Với các địa phương, nhà vừa tạo điều kiện cho người dân có quyền bầu cử các cơ quan chính quyền ở nơi mình sinh sống. Nhà vua cho phép các giáo dân ở các giáo xứ Công giáo được bầu lãnh đạo cho giáo xứ. Cụ thể, năm 1843, một giáo xứ ở địa phương đã bầu cử để cử người vào Hội đồng thành phố. Hội nghị giáo xứ (tiếng Thụy Điển: Sockenstämma) được tổ chức đầu tiên vào năm 1817 thời nhiếp chính Karl, nhằm bầu cử các cha xứ, giám mục tham gia chính quyền, đồng thời còn kiêm nhiệm vụ chăm sóc giáo xứ và cứu trợ người nghèo[69]. Hội nghị này cũng đề nghị đưa luật giáo xứ[70] vào áp dụng tại Thụy Điển. Các cuộc hội nghị giáo xứ tiếp theo và sau đó là cuộc cải cách thành phố năm 1862[71] của chính phủ đã buộc giáo xứ phải thay đổi cuộc họp, nội dung họp cho phù hợp. Nhiều cuộc họp quyết định cha xứ sẽ là chủ tịch của thành phố nếu được bầu, nhưng về sau thì bị chững lại và cuối cùng được thực hiện đầy đủ ở nước này từ năm 1921 trở đi.

Karl Johan đi một mình ở Thụy Điển để tìm kiếm những người tài giỏi vào giúp chính quyền. Trên nhiều chuyến đi của ông[72] trên khắp đất nước, ông đã tìm kiếm, luôn luôn tìm kiếm những người tài năng để tham gia vào xây dựng đất nước. Ông cũng thực hiện nhiều biện pháp để đãi ngộ người tài, thưởng xứng đáng nếu họ có nỗ lực và làm việc tốt.

Những nỗ lực của ông đã đưa tới kết quả đáng khích lệ: GDP tăng 60% và gia tăng bình quân đầu người là 17%/người[73]. Lý do cho sự phát triển này là dân số Thụy Điển tăng nhanh gấp 3 lần, hòa bình của đất nước và phát triển kinh tế giúp Karl XIV và các vua kế nhiệm xây dựng một xã hội phúc lợi cho nước Thụy Điển hiện đại[74].

Đối ngoại

Quốc vương Karl XIV của Thụy Điển thực hiện chính sách đối ngoại hòa bình, không xung đột nhiều với các quốc gia lân cận. Với vùng đất Na Uy đã chiếm được từ tay Đan Mạch sau Hiệp ước Kiel 1813, nhà vừa xúc tiến đàm phán với vua Đan Mạch về vấn đề này và cũng như tìm cách giải quyết nhanh gọn vấn đề bồi thường chiến phí cho Đan Mạch. Cuộc đàm phán giữa quốc vương hai nước kéo dài mà không ra quyết định cuối cùng về số phận của Na Uy. Cuối cùng, hội nghị Aechen giữa các nước quyết định Na Uy sẽ được nhập vào Thụy Điển. Không muốn làm mất lòng hay có rắc rối với Đan Mạch, Quốc vương Karl XIV đã nhờ người Anh làm trung gian hòa giải để rồi ký với Đan Mạch một hòa ước vào ngày 1/9/1819, theo đó tiền bồi thường chiến phí sẽ là 7 triệu curon đã được giảm xuống còn 3 triệu sẽ được trả dần trong 10 năm. Khi Quốc hội Na Uy muốn Thụy Điển giải quyết các khoản chiến phí phát sinh sau cuộc chiến, nhà vua Thụy Điển de dọa sẽ cho Đan Mạch quay trở lại và từ chối trả lời về khoản chiến phí của Quốc hội Na Uy, cuối cùng Na Uy đã phải chấp nhận thực tế đó[75].

Một vấn đề khá nan giải của Quốc vương Karl XIV với các nước, đó là vấn đề ngoại thương. Để trả ơn nước Ạnh trong việc trung gian giải quyết vấn đề Na Uy, nhà vua quyết định bán các tàu buôn cho các thương buôn người Anh (1820) - nhưng thực tế thì bán cho nước Mỹ và các thuộc địa của người Tây Ban Nha ở châu Mỹ. Việc này của Thụy Điển làm Sa hoàng Nga nổi giận - Nga đòi gây chiến tranh với Thuỵ Điển. Trước sự đe dọa của Nga, Thụy Điển buộc phải đình chỉ việc buôn bán này. Trong nội bộ chính phủ, quốc vương gặp khó khăn và mâu thuẫn với các bộ trưởng và các hợp đồng buôn bán tàu với Anh và Tây Ban Nha bị vỡ gây thất thoát cho ngân sách quốc gia.

Một chính sách mà Karl XIV áp dụng tài tình là chính sách trung lập. Trước cuộc xung đột có thể xảy ra giữa Anh và Nga, nhà vua tuyên bố Thụy Điển trung lập với các nước lớn. Tình bạn giữa Karl Johan và Alexander I đã duy trì bền vững gần như cho đến khi ông qua đời vào năm 1825 và người kế nhiệm của ông là Nikolai I của Nga cho thấy nói chung ít nhiều sự lịch sự của Karl Johan (ví dụ thông qua chuyến thăm cá nhân bất ngờ của nhà vua vào tháng 6 năm 1838 sang Nga). Trong Chiến tranh Ba Lan (1830-1831), phe đối lập bày tỏ sự nghi ngờ trước chính sách thân Nga của nhà vua nhưng không ngăn cản được các sự việc xảy ra tiếp sau đó ở Na Uy. Năm 1824 đã có một cuộc tranh chấp biên giới giữa Na Uy và Nga, nhưng sau đó được vua Thụy Điển giải quyết êm đẹp và giữ vững mối quan hệ tốt với Nga dưới thời Sa hoàng kế nhiệm Nicholas I.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Karl_XIV_Johan_của_Thụy_Điển http://aleph.nkp.cz/F/?func=find-c&local_base=aut&... //www.getty.edu/vow/ULANFullDisplay?find=&role=&na... http://catalogo.bne.es/uhtbin/authoritybrowse.cgi?... http://catalogue.bnf.fr/ark:/12148/cb125108868 http://data.bnf.fr/ark:/12148/cb125108868 http://www.idref.fr/02763289X http://id.loc.gov/authorities/names/n79065096 http://d-nb.info/gnd/118560174 http://ci.nii.ac.jp/author/DA16601065?l=en http://isni-url.oclc.nl/isni/0000000121395548